Thứ Ba, 23 tháng 10, 2012

Bà bán rau



Ăn rau không chú ơi?

Một giọng khàn khàn, run run làm gã giật mình. Trước mắt gã, một bà cụ già yếu, lưng còng cố ngước lên nhìn gã, bên cạnh là mẹt rau chỉ có vài mớ rau muống xấu mà có lẽ có cho cũng không ai thèm lấy.

- Ăn hộ tôi mớ rau...!

Giọng bà cụ vẫn khẩn khoản. Bà cụ nhìn gã ánh mắt gần như van lơn. Gã cụp mắt, rồi liếc xuống nhìn lại bộ đồ công sở đang khoác trên người, vừa mới buổi sáng sớm. Bần thần một lát rồi gã chợt quay đi, đáp nhanh: Dạ cháu không bà ạ! Gã nhấn ga phóng nhanh như kẻ chạy trốn. Gã chợt cảm thấy có lỗi, nhưng rồi cái cảm giác ấy gã quên rất nhanh. "Mình thương người thì ai thương mình" - cái suy nghĩ ích kỷ ấy lại nhen lên trong đầu gã.

- Ăn hộ tôi mớ rau cô ơi! Tiếng bà cụ yếu ớt.

- Rau thế này mà bán cho người ăn à? Bà mang về mà cho lợn!

Tiếng chan chát của một cô gái đáp lại lời bà cụ.

Gã ngoái lại, một cô gái cũng tầm tuổi gã. Cau mày đợi cô gái đi khuất, gã đi đến nói với bà:
- Rau này bà bán bao nhiêu?

- Hai nghìn một mớ - Bà cụ mừng rỡ.

Gã rút tờ mười nghìn đưa cho bà cụ.

- Sao chú mua nhiều thế?- Con mua cho cả bạn con. Bây giờ con phải đi làm, bà cho con gửi đến chiều con về qua con lấy!

Rồi gã cũng nhấn ga lao vút đi như sợ sệt ai nhìn thấy hành động vừa rồi của gã. Nhưng lần này có khác, gã cảm thấy vui vui.

Chiều hôm ấy mưa to, mưa xối xả. Gã đứng trong phòng làm việc ngắm nhìn những hạt mưa lăn qua ô cửa kính và theo đuổi nhưng suy nghĩ mông lung. Gã thích ngắm mưa, gã thích ngắm những tia chớp xé ngang trời, gã thích thả trí tưởng tượng theo những hình thù kỳ quái ấy Chợt gã nhìn xuống hàng cây đang oằn mình trong gió, gã nghĩ đến những phận người, gã nghĩ đến bà cụ...

- Nghĩ thế đủ rồi đấy!

Giọng người trưởng phòng làm gián đoạn dòng suy tưởng của gã. Gã ngồi xuống, dán mắt vào màn hình máy tính, gã bắt đầu di chuột và quên hẳn bà cụ.

Mấy tuần liền gã không thấy bà cụ, gã cũng không để ý lắm. Gã đang bận với những bản thiết kế chưa hoàn thiện, gã đang cuống cuồng lo công trình của gã chậm tiến độ. Gã quên hẳn bà cụ.

Chiều chủ nhật gã xách xe máy chạy loanh quanh, gã vẫn thường làm như vậy và có lẽ gã cũng thích thế.

Gã ghé qua quán trà đá ven đường, nơi có mấy bà rỗi việc đang buôn chuyện.

Chưa kịp châm điếu thuốc, gã chợt giật mình bởi giọng oang oang của một bà béo:

- Bà bán rau chết rồi.
- Bà cụ hay đi qua đây hả chị? - chị bán nước khẽ hỏi.
- Tội nghiệp bà cụ! một giọng người đàn bà khác.
- Cách đây mấy tuần bà cụ giở chứng cứ ngồi dưới mưa bên mấy mớ rau. Có người thấy thương hỏi mua giúp nhưng nhất quyết không bán, rồi nghe đâu bà cụ bị cảm lạnh.

Nghe đến đây mắt gã chợt nhòa đi, điếu thuốc chợt rơi khỏi môi.
Bên tai gã vẫn ù ù giọng người đàn bà béo...

Life Story

Thứ Sáu, 19 tháng 10, 2012

THIỀN CỦA PHẬT

Đức Phật nói: "Ta coi các ngôi vị của các vua chúa và các nhà cầm quyền chỉ như những hạt bụi. Ta coi các kho tàng vàng bạc và châu ngọc như gạch và sỏi đá. Ta coi các xiêm y bằng lụa là đẹp đẽ nhất chỉ như giẻ rách. Ta nhìn thấy vô số thế giới của vũ trụ như những hạt trái cây nhỏ bé, và chiếc hồ lớn nhất ở Ấn Độ tựa như một giọt dầu trên bàn chân ta. Ta nhận thấy các giáo điều của thế gian đều như những cảnh hư ảo của các nhà ảo thuật. Ta suy nghiệm ra quan niệm tối cao của sự giải thoát như gấm thêu vàng trong một giấc mộng, và nhìn thánh đạo của các bậc đã giác ngộ như những bông hoa hiện ra trong mắt người ta. Ta thấy thiền định như một cột trụ của núi non, cõi Niết bàn như là một cơn ác mộng lúc ban ngày. Ta xem sự phán đoán về đúng và sai như vũ khúc uốn luợn của một con rồng, và sự tăng hay giảm của các lòng tin chỉ như vết tích sót lại của bốn mùa."

THIỀN VIỆN YÊN LẶNG

Shoichi là vị thiền sư chỉ có một mắt, rạng ngời giác ngộ. Ông dạy các đệ tử của ông ở thiền viện Tofuku.

Ngày và đêm cả ngôi thiền viện đứng im lặng. Không có một tiếng động nào cả.

Ngay cả việc tụng kinh cũng bị bãi bỏ bởi ông thầy. Các môn sinh của ông chẳng làm gì cả ngoài việc thiền định.

Khi ông thầy qua đời, một người hàng xóm già nua nghe thấy tiếng chuông vang lên và tiếng tụng kinh. Lúc bấy giờ bà lão biết ngay rằng Shoichi đã ra đi.

DẤM CỦA TOSUI

Tosui là vị thiền sư đã từ bỏ lối câu nệ hình thức của các thiền viện để sống dưới một cây cầu với những người ăn xin. Khi ông đã quá già nua, một người bạn giúp đỡ ông kiếm sống mà khỏi phải đi ăn xin. Ông ta chỉ bày cho Tosui cách làm sao gom cơm lại để chế ra dấm bằng cơm đó, và Tosui đã làm việc này cho đến khi ông qua đời.

Trong khi Tosui làm dấm, một người trong đám ăn xin cho ông một bức tranh Phật. Tosui treo nó lên trên vách căn chòi của ông và đặt một tấm bảng bên cạnh đó. Tấm bảng viết:
"Thưa Ông Phật A Di Đà: Căn phòng nhỏ này thật quả chật hẹp. Tôi có thể để ông lưu lại tạm bợ thôi. Nhưng đừng nghĩ rằng tôi đang thỉnh cầu ông hộ trì cho tôi được tái sinh vào cõi cực lạc của ông đâu."

KHÔNG VƯỚNG MẮC

Kitano Gempo, tu viện trưởng của tu viện Eihei, được chín mươi hai tuổi khi ông qua đời vào năm 1933. Ông đã cố gắng giữ gìn suốt cuộc đời của ông để không bị vướng mắc vào một thứ gì cả. Khi còn là một kẻ khất thực lang thang ở vào tuổi hai mươi ông bất ngờ gặp gỡ một du khách hút thuốc lá. Vì cùng đi với nhau xuống một con đường núi, họ ngừng lại dưới một bóng cây để nghỉ. Du khách mời Kitano hút thuốc, ông nhận vì lúc đó ông đang rất đói bụng.

"Hút thuốc thế này thật là thú vị," ông nhận xét. Người kia cho ông một ống điếu và thuốc lá dư rồi họ chia tay nhau.

Kitano cảm nghĩ: "Những thứ thích thú như thế này có thể gây phiền nhiễu cho việc thiền định. Trước khi chuyện này đi quá trớn, ta nên ngưng lại ngay bây giờ." Rồi ông liền quẳng đồ hút thuốc đi. 

Khi ông được hai mươi ba tuổi, ông nghiên cứu Kinh Dịch, học thuyết sâu xa nhất về vũ trụ. Lúc đó là mùa đông và ông cần một ít quần áo dày. Ông viết thư cho thầy của ông ở cách xa hằng trăm dặm, nói cho thầy rõ về nhu cầu của ông, và đưa lá thư cho một du khách nhờ chuyển giao. Cả mùa đông hầu như sắp trôi qua mà chẳng thấy thư trả lời hay áo quần gửi tới. Do đó Kitano liền nhờ đến sự tiên đoán của Kinh Dịch, trong đó cũng dạy thuật bói toán, để xem bức thư của ông có bị thất lạc hay không. Ông thấy rằng quả đúng là thất lạc. Một bức thư do thầy ông gửi tới sau đó không thấy đề cập gì đến quần áo cả.

"Nếu ta mà tiên đoán chính xác được mọi chuyện như vậy bằng Kinh Dịch, ta có thể sẽ lơ là việc thiền định của ta," Kitano nghĩ vậy. Do đó ông liền từ bỏ môn học kỳ diệu này và không bao giờ lại trông cậy vào những quyền lực của nó nữa. 

Khi ông được hai mươi tám tuổi, ông học lối viết thư họa và thi phú Trung Hoa. Ông trở thành điêu luyện trong những môn nghệ thuật này đến nỗi thầy ông còn phải ca ngợi ông. Kitano ngẫm nghĩ: "Nếu ta không ngừng ngay lúc này, thì ta sẽ thành một thi sĩ, mà không thành một thiền sư." Bởi thế ông chẳng bao giờ viết một bài thơ nào khác nữa.

DẠY ĐIỀU TỐI THƯỢNG

Thời xa xưa ở Nhật Bản, người ta thường dùng những lồng đèn bằng tre dán giấy với những ngọn nến ở bên trong. Một chàng mù, đến thăm bạn vào một đêm, được biếu cho một cây đèn lồng để mang về nhà với chàng.

"Tôi không cần một cây đèn lồng," chàng ta nói. "Bóng tối hay ánh sáng đối với tôi đều giống nhau cả."

"Tôi biết anh không cần một cái đèn lồng để soi đường." người bạn trả lời, "nhưng nếu anh không có một cái thì một người khác nào đó có thể đụng vào anh. Bởi thế anh nên cầm lấy nó đi."

Chàng mù ra đi với cây đèn lồng và đi chẳng bao xa đã có người chạy đụng ngay vào chàng ta. "Đi đâu phải coi chừng chứ!" chàng la lớn tiếng với người lạ. "Anh không thấy cây đèn lồng này sao?"

"Đèn của anh đã tắt ngóm hết rồi, anh bạn ạ!" người lạ trả lời.

MỘT GIỌT NƯỚC

Một thiền sư tên là Gisan bảo một môn sinh trẻ mang đến cho ông một thùng nước để hòa lạnh nước tắm.

Môn sinh mang nước đến và, sau khi hòa lạnh nước tắm, anh đổ ra đất chút nước còn sót lại.

"Con khờ dại quá!" ông thầy mắng anh ta. "Tại sao con đã không tưới chút nước còn thừa vào cây cối? Con có quyền gì mà lãng phí ngay cả một giọt nước trong thiền viện này?"
Môn sinh trẻ giác ngộ Thiền ngay trong lúc ấy. Anh đổi danh tánh của anh thành Tekisui, nghĩa là một giọt nước.

MỘT BỨC THƯ CHO NGƯỜI HẤP HỐI

Bassui viết bức thư sau cho một trong những đệ tử của ông sắp lìa đời:

"Thực chất của tâm con không hề được sinh ra, cho nên nó không bao giờ bị diệt đi. Nó không phải là một hiện thực, nó có thể bị tiêu hủy. Nó chẳng là hư không, nó chỉ là một khoảng trống. Nó không có sắc cũng chẳng có hình. Nó không hưởng thụ lạc thú và không hứng chịu khổ đau.

"Thầy biết rằng con đau bệnh rất nặng. Như một thiền sinh giỏi, con đang đương đầu với chứng bệnh đó một cách quả cảm. Con có thể không biết chính xác là ai đang đau khổ, nhưng con hãy tự hỏi con: Thực chất của tâm này là cái gì? Hãy chỉ suy tưởng đến điều này thôi. Con sẽ không cần nữa. Chớ ham muốn chi hết. Giây phút cuối cùng của con nó vô hạn, giống như một bông tuyết tan trong không trung tinh khiết."

DẠO CHƠI NỬA ĐÊM

Nhiều môn sinh đang học thiền định với thiền sư Sengai. Một người trong nhóm họ thường hay thức dậy vào ban đêm, leo vượt qua tường thiền viện, và đi ra phố dạo chơi.

Sengai, khi kiểm tra khu phòng ngủ, một đêm thấy môn sinh này vắng mặt và cũng khám phá ra cái ghế đẩu cao mà anh chàng này dùng để trèo tường. Sengai dời cái ghế đẩu đi và đứng vào đó thay chỗ cái ghế.

Khi anh chàng đi hoang trở về, không hay biết rằng Sengai là cái ghế đẩu, anh chàng đặt chân mình lên đầu ông thầy và nhảy xuống mặt đất. Khám phá ra được điều mà anh chàng đã làm, anh ta thất kinh.

Sengai nói: "Trời thường lạnh buốt vào buổi sáng sớm. Hãy cẩn thận đừng để bị cảm lạnh nhé con."

Chàng môn sinh không bao giờ đi ra ngoài vào ban đêm nữa.

THIỀN CỦA NGƯỜI KỂ CHUYỆN

Encho là một người kể chuyện nổi tiếng. Những chuyện về tình yêu của ông làm rung động trái tim những người nghe ông. Khi ông thuật lại một câu chuyện chiến tranh, thì dường như những người nghe tưởng chính họ đang ở ngoài chiến trường.

Một ngày Encho gặp gỡ Yamaoka Tesshu, một cư sĩ nhưng hầu như đã đạt tới trình độ thầy về Thiền. "Tôi biết," Yamaoka nói, "ông là người kể chuyện hay nhất trong nước ta và ông làm cho thiên hạ khóc hay cười theo ý muốn. Hãy kể cho tôi nghe cái chuyện ưa thích của tôi là chuyện Cậu Bé Trái Đào. Khi tôi còn là một đứa bé tôi thường ngủ bên cạnh mẹ tôi, và bà thường kể chuyện cổ tích này. Giữa câu chuyện thì tôi đã ngủ thiếp đi rồi. Hãy kể chuyện đó cho tôi giống y như mẹ tôi đã kể vậy."

Encho không dám thử làm chuyện này. Ông xin có thời gian để xem xét. Vài tháng sau ông đến gặp Yamaoka và nói: "Làm ơn cho tôi cơ hội kể chuyện cho ông."

"Ngày khác đi," Yamaoka trả lời.

Encho thất vọng rất nhiều. Ông nghiên cứu sâu xa thêm và lại thử kể. Yamaoka bác bỏ ông nhiều lần. Khi Encho bắt đầu lên tiếng thì Yamaoka chận ông lại, nói: "Ông chưa giống mẹ tôi."

Encho phải mất đến năm năm mới có thể kể cho Yamaoka câu chuyện cổ tích như mẹ của ông này đã từng kể chuyện đó cho ông ta trước đây.

Bằng phương cách này, Yamaoka đã truyền thụ Thiền cho Encho.

THIỀN THANH CỜI LỬA

Hakuin thường kể cho các môn sinh của ông về một bà già có một quán trà, ca tụng bà là thấu hiểu được Thiền. Các môn sinh không tin những gì ông đã nói với họ và muốn đi đến quán trà để tự họ tìm hiểu. 

Mỗi khi bà thấy họ tới là bà đã có thể nói được ngay rằng họ tới vì trà hay vì muốn tìm biết về sự am hiểu Thiền của bà. Trong trường hợp đầu, bà đối đãi với họ lịch sự. Trong trường hợp sau, bà ra dấu cho các môn sinh đến phía sau tấm bình phong của bà. Ngay lúc họ vừa tuân theo, bà liền đánh họ với một cái thanh cời lửa.

Chín trong mười người của họ không thể thoát khỏi cú đập của bà.

MÙI CỦA LƯỠI KIẾM BANZO

Matajuro Yagyu là con trai của một tay kiếm nổi danh. Cha chàng, tin rằng tài nghệ của con mình quá tầm thường khó mong đạt được đến mức làm thầy, đã ruồng bỏ chàng.

Vì thế Matajuro đến núi Futara và ở tại nơi đó đã tìm thấy tay kiếm lừng danh Banzo. Nhưng Banzo xác nhận lời nhận xét của người cha. "Anh muốn học kiếm thuật dưới sự chỉ dẫn của ta à?" Banzo hỏi. "Anh không có đủ các điều kiện cần thiết đâu."

"Nhưng nếu con tập luyện chuyên cần, con phải mất bao nhiêu năm để có thể trở thành một bậc thầy?" chàng thanh niên nài nỉ.

"Cả quãng đời còn lại của anh," Banzo trả lời.

"Con không thể chờ đợi lâu như thế" Matajuro giải thích. "Con sẵn lòng trải qua bất kỳ sự gian khổ nào nếu thầy nhận dạy con. Nếu con trở thành người giúp việc tận tâm cho thầy, thì phải học mất bao lâu?"

"Ô! có thể mười năm," Banzo nói khoan dung. 

"Cha của con sắp già rồi, và chẳng bao lâu con phải chăm sóc ông ấy," Matajuro nói tiếp. "Nếu con tập luyện nỗ lực hơn nữa, thì con sẽ mất bao lâu?"

"Ô, có thể ba mươi năm," Banzo nói.

"Sao lại như thế?" Matajuro hỏi. "Thoạt tiên thầy nói là mười và nay lại là ba mươi năm. Con sẽ chịu đựng mọi sự thử thách gay go để quán triệt môn nghệ thuật này trong thời gian ngắn nhất!"

"Được thôi." Banzo nói, "trong trường hợp đó anh sẽ phải ở lại với ta trong bảy mươi năm. Một người nôn nóng muốn đạt kết quả như anh ít khi mà học hỏi cho nhanh chóng được."

"Rất tốt," chàng thanh niên tuyên bố, sau cùng chàng hiểu ra rằng mình bị khiển trách vì thiếu kiên nhẫn, "Con đồng ý."

Matajuro được bảo cho biết là đừng bao giờ nói về kiếm thuật và đừng bao giờ đụng đến một thanh kiếm. Chàng ta nấu ăn cho thầy của chàng, rửa chén đĩa, làm giường cho thầy, dọn dẹp cái sân, chăm sóc khu vườn, tất cả mọi việc mà không có một lời nói nào về kiếm thuật cả.

Ba năm đã trôi qua. Matajuro vẫn cố gắng sức làm lụng. Nghĩ đến tương lai của mình, chàng buồn. Ngay cả chàng cũng chưa bắt đầu học môn nghệ thuật mà chàng đã hiến dâng cuộc đời mình cho nó.

Nhưng một ngày Banzo bò tới sau lưng chàng và đánh cho chàng một cú đau kinh khủng bằng một thanh kiếm gỗ.

Ngày hôm sau, trong lúc Matajuro đang nấu cơm, Banzo lại nhảy vọt đến chàng một cách bất ngờ.

Sau đó, ngày và đêm, Matajuro phải tự phòng vệ mình để tránh những cú tấn công bất thình lình. Không một giây phút nào trôi qua trong bất kỳ một ngày nào mà chàng lại không phải nghĩ tới mùi của thanh kiếm Banzo.

Chàng học hỏi thật nhanh, chàng mang lại những nụ cười tới khuôn mặt ông thầy của chàng. Matajuro trở thành tay kiếm vĩ đại nhất trong nước.

CÁI GÕ CUỐI CÙNG

Tangen theo học với Sengai từ thuở nhỏ. Khi ông hai mươi tuổi ông muốn rời xa thầy của ông và tìm thăm các thiền sư khác để học hỏi đối chiếu, nhưng Sengai không cho phép chuyện đó. Mỗi lần Tangen gợi ý ra chuyện này, Sengai lại gõ cho ông một cái lên đầu.

Cuối cùng Tangen nhờ một sư huynh tìm cách thuyết phục hộ để xin phép Sengai. Người sư huynh đã thực hiện điều đó và rồi báo lại cho Tangen: "Đã dàn xếp xong xuôi. Ta đã bố trí để chú có thể khởi sự cuộc hành hương của chú ngay."

Tangen đi tới gặp Sengai để cám ơn thầy vì thầy đã cho phép. Vị thầy trả lời bằng cách tặng cho ông một cái gõ nữa.

Khi Tangen tường thuật lại chuyện này cho sư huynh của ông thì người này nói: "Chuyện gì vậy này? Thầy Sengai không có quyền đã cho phép rồi lại đổi ý. Ta sẽ nói với thầy như vậy." Và sư huynh đi gặp thầy.

"Thầy không hủy bỏ việc thầy cho phép," Sengai nói. "Thầy chỉ muốn cho anh chàng một cái gõ cuối cùng lên đầu, để khi anh ta trở về anh sẽ giác ngộ ra và thầy không còn có thể khiển trách gì anh ta nữa."

ĐỐI THOẠI THIỀN

Các thiền sư huấn luyện cho các môn sinh trẻ tuổi của họ tự mình phát biểu ý tưởng. Hai thiền viện mỗi nơi có một chú bé được bảo trợ. Một chú, đi lấy rau mỗi sáng, thường gặp chú nọ trên đường.

"Anh đi đâu đấy?" chú nọ hỏi.

"Tôi đi đến bất cứ nơi nào mà bàn chân tôi đi tới," chú kia trả lời.

Câu trả lời này làm chú thứ nhất lúng túng, chú bèn đến thầy mình nhờ giúp đỡ. "Sáng mai," ông thầy bảo chú, "khi con gặp anh bạn nhỏ đó, hãy hỏi anh ta câu tương tự. Anh ta sẽ trả lời cho con theo cách như cũ, và rồi con hỏi anh ta: "Giả dụ như anh không có chân, vậy thì anh sẽ đi tới đâu? Như thế sẽ làm anh ta kẹt ngay."

Hai chú nhỏ lại gặp nhau vào buổi sáng hôm sau.

"Anh đi đâu đấy?" chú thứ nhất hỏi.

"Tôi đi đến bất cứ nơi nào mà gió thổi," chú kia trả lời.

Câu trả lời này lại làm cho chú trước bối rối, chú ôm mối thất bại về tìm gặp thầy chú.

"Hãy hỏi anh ta rằng anh sẽ đi tới đâu nếu không có gió," ông thầy gợi ý.

Ngày hôm sau hai chú nhỏ gặp gỡ nhau một lần thứ ba.

"Anh đi đâu đấy?" chú thứ nhất hỏi.

"Tôi đi ra chợ mua rau," chú kia trả lời.

LÀM SAO VIẾT MỘT BÀI THƠ CHỮ HÁN


Người ta hỏi một thi sĩ Nhật Bản nổi danh là làm thế nào để sáng tác ra một bài thơ chữ Hán.


"Một bài thơ chữ Hán thông thường có bốn câu," ông ta giảng giải. "Câu đầu tiên bao hàm phần khởi nhập; câu thứ nhì là sự chuyển tiếp của phần đó, câu thứ ba chuyển từ đề mục này và bắt đầu một ý mới và câu thứ tư kết hợp ba câu đầu lại với nhau. Một bài ca dân gian Nhật Bản đã minh họa điều này:

Hai cô con gái của một thương gia bán lụa sống ở Kyoto.
Cô chị hai mươi tuổi, Cô em, mười tám.
Một chàng lính có thể giết người bằng lưỡi kiếm của chàng ta,
Nhưng các cô gái này giết đàn ông bằng đôi mắt các nàng."

BA HẠNG ĐỆ TỬ

Một thiền sư tên là Gettan, sống vào cuối thời đại Tokugawa. Ông thường nói: "Có ba hạng đệ tử: những người phổ biến Thiền cho những người khác, những người bảo quản chùa chiền và đền thờ, và rồi còn có những bị gạo và những giá treo áo."

Gasan phát biểu cùng một ý tương tự. Khi ông còn đang theo học với Tekisui, thầy của ông rất nghiêm khắc. Đôi khi thầy còn đánh cả ông nữa. Các môn sinh khác không chịu đựng nổi cách thức giáo huấn đó và bỏ cuộc. Gasan ở lại, nói: "Một đệ tử hèn kém thì sử dụng thế lực của thầy. Một đệ tử khá tốt thì ngưỡng mộ từ tâm của thầy. Môt đệ tử giỏi giang thì trở nên mạnh mẽ dưới kỷ luật của một ông thầy."

ÔNG PHẬT SỐNG VÀ NGƯỜI THỢ ĐÓNG THÙNG

Các thiền sư hay chỉ dẫn cho từng cá nhân trong một căn phòng cô tịch. Không ai được vào khi thầy và môn sinh đang ở cùng nhau.

Mokurai, thiền sư ở chùa Kennin tại Kyoto, thường ưa thích chuyện trò với các nhà buôn và nhà báo cũng như với các môn sinh của ông. Một người thợ đóng thùng nọ gần như thất học. Ông ta hay hỏi Mokurai những câu điên rồ, uống nước trà, rồi bỏ đi.

Một hôm khi người thợ đóng thùng ở đó Mokurai muốn chỉ dẫn riêng tư cho một đệ tử, cho nên ông yêu cầu người thợ đóng thùng đợi ở một căn phòng khác.

"Tôi biết ông là một vị Phật sống," ông thợ phản đối. "Ngay cả các tượng Phật bằng đá trong chùa cũng không bao giờ từ chối nhiều người cùng đến trước mặt các pho tượng đó. Thế thì tại sao tôi lại bị đuổi ra?"

Mokurai đã phải đi ra bên ngoài để gặp các đệ tử của ông.

THỜI PHẢI CHẾT

Ikkyu, ông thiền sư, ngay lúc còn là một đứa bé trai, đã rất thông minh. Thầy của ông có một cái tách uống trà quý báu, một món đồ cổ hiếm có. Ikkyu lỡ tay đánh vỡ cái tách này và vô cùng lo lắng. Nghe thấy tiếng bước chân thầy ông, ông dấu các mảnh vỡ của cái tách vào phía sau ông. Khi thầy xuất hiện, Ikkyu hỏi: "Tại sao người ta phải chết?"

"Đây là lẽ tự nhiên," ông già giải thích. "Mọi vật đều phải chết vì đã sống lâu rồi."

Ikkyu, liền đưa cái tách bị bể ra, nói thêm: "Đã tới thời cái tách của thầy phải chết rồi."

BẠN THẬT SỰ

Thời xưa ở Trung Hoa có hai người bạn, một người chơi đàn rất điêu luyện và một người nghe rất sành điệu.

Khi một người đàn hay hát về núi non, người kia sẽ nói: "Tôi có thể nhìn thấy núi non ở trước mặt chúng ta."

Khi một người đàn về nước, người nghe sẽ reo lên: "Đây là suối nước chảy!"

Nhưng rồi người nghe bị bệnh và từ trần. Người bạn còn lại cắt đứt dây của cây đàn của mình và không bao giờ chơi đàn lại nữa. Kể từ thời đó, việc cắt đứt dây đàn luôn luôn là một biểu hiện của tình bạn thân thiết.

KHÔNG LÀM, KHÔNG ĂN

Hyakujo, Thiền sư Trung Hoa, thường hay lao động cùng với các môn sinh của ông dù đã ở vào tuổi tám mươi, thu vén vườn tược, quét dọn đất đai, và cắt tỉa cây cối.

Các môn sinh cảm thấy phiền não khi thấy ông thầy già làm lụng cực nhọc như vậy, nhưng họ biết rằng thầy sẽ không nghe theo lời khuyên của họ mà ngưng lại, vì thế nên họ dấu dụng cụ của thầy đi luôn.

Ngày hôm đó thầy không ăn. Ngày hôm sau thầy không ăn, và ngày kế tiếp cũng vậy. "Thầy có thể giận lẫy vì chúng mình dấu dụng cụ của thầy," đám môn sinh phỏng đoán, "chúng mình nên để dụng cụ lại chỗ cũ thì hơn."

Cái ngày mà họ mang trả lại dụng cụ, thầy làm việc và ăn tương tự như trước. Vào buổi tối, thầy dạy họ: "Không làm, không ăn."

KHÔNG CÓ GÌ HIỆN HỮU

Yamaoka Tesshu, khi còn là một thiền sinh trẻ, đi thăm viếng hết thầy này đến thầy nọ. Ông đến thăm Dokuon ở Shokoku.

Muốn tỏ lộ sự chứng ngộ của mình, ông nói: "Tâm, Phật, và chúng sinh nói cho cùng chẳng hề hiện hữu. Bản chất thực sự của mọi hiện tướng là không. Không có thực chứng, không có si mê, không có hiền triết, không có phàm tục. Không có ban phát và không có gì để thụ nhận."

Dokuon, đang hút thuốc một cách yên lặng, không hề nói gì cả. Bỗng nhiên ông đập mạnh vào Yamaoka bằng cái ống điếu trúc của ông. Chuyện đó làm cho chàng trẻ tuổi rất giận dữ.

"Nếu không có gì hiện hữu," Dokuon hỏi, "vậy thì cơn giận này từ đâu đến?"

HÃY NGỦ ĐI

Gasan đang ngồi cạnh giường của Tekisui ba ngày trước khi thầy của ông qua đời. Tekisui trước đó đã chọn ông là người kế vị.

Một ngôi chùa mới đây vừa bị cháy và Gasan bận lo xây cất lại kiến trúc. Tekisui hỏi ông: "Con sẽ làm gì sau khi ngôi chùa được xây cất lại?"

"Khi thầy qua khỏi cơn bệnh chúng con muốn thầy nói chuyện ở đó," Gasan nói.

"Giả dụ như ta không sống được đến lúc đó?"

"Thì chúng con sẽ thỉnh một người khác," Gasan trả lời.

"Giả sử các con không thể tìm được ai cả?" Tekisui hỏi tiếp.

Gasan trả lời lớn tiếng: "Thầy đừng hỏi những câu điên khùng như vậy nữa. Hãy ngủ đi."

PHÉP LẠ THỰC SỰ

Khi Bankei đang thuyết pháp ở chùa Ryumon, một tu sĩ Shinshu, vốn tin vào sự cứu độ qua việc chú niệm danh hiệu của đức Phật A Di Đà, ganh tị với đám thính giả đông đảo của ông và muốn tranh luận với ông.

Bankei đang nói chuyện nửa chừng thì tu sĩ kia xuất hiện, nhưng ông ấy gây náo động đến nỗi Bankei phải ngưng bài thuyết pháp để hỏi về chuyện ồn ào.

"Tổ sáng lập của phái chúng tôi," tu sĩ khoe khoang, "có những năng lực kỳ diệu như là ngài cầm một cây bút lông trong tay ngài ở một bên bờ sông, người hầu cận của ngài giơ lên một tấm giấy ở phía bờ sông bên kia, và ông thầy đã viết thánh danh A Di Đà qua không khí. Ông có thể làm được một việc thần diệu như thế không?"

Bankei trả lời nhẹ nhàng: "Có lẽ con cáo của ông có thể biểu diễn được cái trò tiểu xảo đó, nhưng đấy không phải là cung cách của Thiền. Phép lạ của ta là khi nào ta cảm thấy đói thì ta ăn, và khi nào ta cảm thấy khát ta uống."

LƯ ĐỂ ĐỐT HƯƠNG

Một người đàn bà ở Nagasaki tên là Kame là một trong số ít người làm ra những cái lư để đốt hương ở Nhật Bản. Một cái lư để đốt như thế là một tác phẩm nghệ thuật chỉ được dùng trong một trà thất hay trước một bàn thờ gia đình.

Ông bố của bà trước thời bà cũng là một nghệ nhân như vậy. Kame thích uống rượu. Bà cũng hút thuốc và thường luôn giao du với đàn ông. Mỗi khi bà kiếm ra được chút ít tiền bà liền mở tiệc mời các nghệ sĩ, thi sĩ, thợ mộc, công nhân, những ông có năng khiếu hoặc ưa tiêu khiển. Khi họ tụ họp lại bà tường trình về những mẫu hình của bà.

Kame quá mức chậm chạp trong việc sáng tạo, nhưng khi tác phẩm của bà hoàn thành thì nó luôn luôn là một kiệt tác. Những cái lư hương của bà được trân trọng giữ gìn trong những gia đình mà những nữ chủ nhân không bao giờ uống rượu, hút thuốc hay giao du một cách tự do với đàn ông

Thị trưởng của Nagasaki có lần yêu cầu Kame vẽ mẫu hình một cái lư hương cho ông. Bà trì hoãn làm chuyện đó đến gần nửa năm trời trôi qua. Vào lúc đó thì ông thị trưởng, nay đã được thăng chức lên một nhiệm sở ở một thành phố xa xôi khác, đến viếng thăm bà. Ông ta thúc hối Kame khởi sự làm cái lư hương của ông.

Sau cùng có được hứng cảm, Kame đã làm ra cái lư hương. Sau khi lư hương được hoàn tất bà đặt nó lên một cái bàn. Bà ngắm nhìn nó thật lâu và thận trọng. Bà hút thuốc và uống rượu trước cái lư cứ như nó là người bạn của riêng bà. Suốt cả ngày bà quan sát nó.

Cuối cùng, cầm một cái búa lên, Kame đập nát nó ra từng mảnh vụn. Bà thấy nó không phải là một tác phẩm sáng tạo hoàn hảo mà tâm trí bà mong muốn.

SỰ PHÁT ĐẠT THỰC SỰ

Một ông nhà giàu thỉnh cầu Sengai viết cho một đôi điều về sự phát đạt liên tục của gia đình ông ta để cái đó có thể được trân trọng lưu giữ lại từ thế hệ này tới thế hệ khác.

Sengai lấy một tờ giấy lớn và viết: "Cha chết, con chết, cháu chết."

Ông nhà giàu nổi giận. "Tôi xin nhờ ông viết đôi điều cho nền hạnh phúc của gia đình tôi! Sao ông lại bày trò giễu cợt như thế này?"

"Nào có ý khôi hài chi đâu," Sengai giải thích. "Nếu trước khi chính ông chết mà con trai của ông đã chết rồi, điều đó sẽ làm ông đau khổ rất nhiều. Nếu cháu trai của ông mà qua đời trước con trai ông, cả hai cha con ông sẽ tan nát cõi lòng? Nếu gia đình ông, thế hệ này kế tiếp tới thế hệ khác, đều qua đời theo cái thứ tự mà tôi đã vừa kể ra, thì đó sẽ là cái tiến trình cuộc sống tự nhiên. Tôi gọi điều này là sự phát đạt thực sự."

KHÔNG DÍNH BỤI

Zengetsu, một thiền sư Trung Hoa vào đời nhà Đường, đã viết lời chỉ dạy sau đây cho những môn sinh của ông:
Sống trong cõi trần gian nhưng giữ để không bị dính mắc vào bụi bặm của trần gian là con đường của một thiền sinh đích thật.

Khi được chứng kiến hành vi tốt đẹp của một người khác, hãy tự khuyến khích mình noi theo gương người đó. Nghe được về hành vi lỗi lầm của một người khác, hãy tự khuyên nhủ mình không nên bắt chước làm theo chuyện đó.

Dù cho một mình trong một căn phòng tối, hãy coi như con đang đối diện một vị khách quý. Hãy bộc lộ những cảm nghĩ của con, nhưng đừng nên vượt quá cái bản tính chân thật của con.

Sự nghèo khó là châu báu của con. Đừng bao giờ đánh đổi nó lấy một cuộc sống dễ dãi.

Một người có thể tỏ ra là một kẻ ngu dại nhưng tuy nhiên không hẳn là một kẻ như vậy. Người đó có thể chỉ đang phòng giữ sự khôn ngoan của mình một cách cẩn thận.

Những đức hạnh là thành quả của kỷ luật tự giác và không rơi rớt xuống từ bầu trời của chúng như là mưa rơi hay tuyết đổ.

Sự khiêm tốn là nền móng của mọi đức hạnh. Hãy để cho những người sống quanh con phát giác ra con trước khi con tự làm cho họ biết tới mình.

Một tấm lòng cao quý không bao giờ tự phô ra trước. Những lời của nó như ngọc báu hiếm hoi, ít khi được phô trương ra và có một giá trị lớn lao.

Đối với một môn sinh chân thật, mỗi ngày là một ngày may mắn. Thời gian trôi qua nhưng người đó không bao giờ lê lết theo phía sau. Chẳng có sự vinh quang hay điều sỉ nhục nào có thể làm người đó động tâm.

Hãy tự khiển trách mình, đừng bao giờ trách móc một người khác. Đừng tranh cãi về cái đúng hay cái sai.

Một số điều, mặc dù đúng, đã bị coi như là sai từ bao nhiêu thế hệ rồi. Bởi vì giá trị của cái đúng có thể sau nhiều thế kỷ mới được thừa nhận, cho nên không cần thiết gì mà phải khao khát một sự đánh giá ngay tức thời.

Hãy sống với nguyên nhân và dành lại thành quả cho luật vĩ đại của vũ trụ. Hãy trải qua mỗi ngày trong sự suy tư an bình.

TÂM ĐÁ

Hogen, một thiền sư Trung Hoa, sống đơn độc trong một ngôi chùa nhỏ ở vùng quê. Một hôm có bốn nhà sư du hành xuất hiện và họ xin phép được nhóm lửa trong sân của ông để sưởi ấm.

Trong khi họ đang nhóm lửa, Hogen nghe thấy họ tranh luận về chủ quan và khách quan. Ông tham dự với họ và nói: "Có một tảng đá lớn. Các ông quán sát xem nó là ở trong hay ở ngoài tâm của các ông?"

Một trong những nhà sư trả lời: "Theo quan điểm Phật giáo thì mọi sự vật đều là đối thể hóa của tâm, cho nên tôi có thể nói rằng tảng đá ở trong tâm tôi."

"Cái đầu của ông chắc phải cảm thấy rất là nặng," Hogen nhận xét, "nếu ông đang mang theo mãi một tảng đá như vậy trong tâm của ông."

CƠN GIẬN DỮ


Một thiền sinh tìm tới với Bankei và than phiền: "Thưa thầy, con có khi giận dữ không kiềm chế nổi. Con có thể chữa trị nó bằng cách nào đây?"

"Con có một cái chi rất kỳ lạ vậy," Bankei trả lời. "Hãy cho ta xem con có cái gì thế."


"Ngay lúc này con không thể tỏ lộ cái đó ra cho thầy thấy được," người kia trả lời.

"Khi nào thì con có thể tỏ lộ cái đó cho ta?" Bankei hỏi.

"Nó xảy đến thật bất ngờ," anh môn sinh trả lời.

"Vậy thì," Bankei kết luận, "nó không phải là bản tánh thực sự của riêng con. Nếu nó là bản tánh thực sự thì con đã có thể tỏ lộ nó cho ta thấy bất cứ lúc nào rồi. Khi con mới được sinh ra đời con đã không có nó, và cha mẹ con đã không trao nó cho con. Hãy suy nghĩ lại chuyện đó đi."

CẢI HÓA THỰC SỰ

Ryokan đã hiến cuộc đời của ông vào việc tu học Thiền. Một ngày ông nghe được rằng người cháu trai của ông, bất chấp những lời khuyên nhủ của thân nhân, đang tiêu phí tiền bạc của anh ta cho một kỹ nữ giang hồ thượng lưu. Bởi vì người cháu trai đã thế vào chỗ của Ryokan trong việc quản lý tài sản của gia đình và gia sản đang trong nguy cơ bị tiêu tan, các thân nhân mới yêu cầu Ryokan phải làm một cái gì về chuyện này.

Ryokan đã phải du hành một đoạn đường dài để tới thăm cháu trai của ông, mà ông đã không gặp mặt anh ta trong nhiều năm rồi. Người cháu trai tỏ ra vẻ mừng rỡ khi gặp lại chú anh và thỉnh mời ông lưu lại qua đêm.

Suốt đêm Ryokan ngồi thiền định. Vào lúc sắp ra đi vào buổi sáng ông nói với chàng trai trẻ: "Chú có lẽ đã về già rồi, tay chú run rẩy như vậy. Cháu có thể giúp chú cột dây đôi dép rơm của chú không?"

Người cháu trai sẵn lòng giúp ông liền. "Cám ơn cháu," Ryokan kết thúc, "cháu thấy đấy, người ta trở nên già nua hơn và yếu đuối dần đi theo từng ngày. Cháu hãy tự bảo trọng lấy bản thân nhé." Rồi Ryokan ra đi, không hề đề cập một lời nào về cô gái làm tiền hạng sang hay về những sự phàn nàn của các người họ hàng cả. Nhưng, kể từ sáng hôm đó trở đi, sự tiêu hoang phí của người cháu trai đã chấm dứt.